Thách thức phát triển doanh nghiệp năm 2015
 

Hội thảo “Thách thức phát triển doanh nghiệp năm 2015” diễn ra từ 9h00 - 11h30, ngày 27/1 tại Hội trường tầng 7, tòa nhà VCCI, Số 9, Đào Duy Anh, Hà Nội.

 Hội thảo được tổ chức nhằm phân tích và đánh giá năng lực hoạt động của  doanh nghiệp (DN), từ đó tạo cơ hội cho DN mở rộng phạm vi hoạt động, nâng cao chất lượng dịch vụ, khẳng định được vị thế cạnh tranh trên thị trường, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. 

Hội thảo do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chỉ đạo, Báo Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp cùng Viện Nghiên cứu và Phát triển Doanh nghiệp – Trường Đại học Kinh doanh Công nghệ Hà Nội, Hội Kế toán Kiểm toán Việt Nam, Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam và Hội Các nhà quản trị Doanh nghiệp Việt Nam tổ chức.

 

 
Gần 200 khách mời tham dự Hội thảo
Đúng 9h10, Hội thảo bắt đầu.
 
Tham dự hội thảo có Tiến sĩ Phạm Thị Thu Hằng – Tổng Thư ký Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; Bà Bùi Thu Thủy – Phó Cục trưởng Cục phát triển Doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Ông Đặng Văn Thanh – Chủ tịch Hội Kế toán Kiểm toán Việt Nam; Ông Lễ Vĩnh Sơn – Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam; PGS.TS Nguyễn Mạnh Quân – Viện trưởng Viện nghiên cứu và Phát triển Doanh nghiệp, trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ  Hà Nội; Bà Trần Thị Hồng Hạnh – Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng; Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong, Chuyên gia kinh tế, Phó Ban Tuyên truyền Lí luận, Báo Nhân dân; Tiến sĩ Vũ Đình Ánh - Chuyên gia kinh tế; Tiến sĩ Võ Trí Thành – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương; Tiến sĩ Phạm Thị Thu Trang – Giám đốc Trung tâm WTO, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; Ông Nguyễn Văn Toàn – Phó Chủ tịch Hiệp hội đầu tư nước ngoài; Ông Ma Đình Dương – Phó Chánh Văn phòng Hiệp hội các DNNVV TP Hà Nội; Ông Phạm Ngọc Tuấn - Tổng Biên tập Báo Diễn đàn Doanh nghiệp, Trưởng ban Tổ chức Hội thảo; Ông Lại Hợp Nhân - Phó Tổng Biên tập Báo Diễn đàn Doanh nghiệp, Phó ban Tổ chức Hội thảo.
 
Hội thảo còn có sự tham dự của gần 200 khách mời là đại diện các cơ quan quản lí, lãnh đạo các Hiệp hội, DN cùng nhiều cơ quan thông tấn báo chí.  
 
Từ trái qua phải: Ông Đặng Văn Thanh – Chủ tịch Hội Kế toán Kiểm toán Việt Nam; Tiến sĩ Phạm Thị Thu Hằng – Tổng Thư ký Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; Bà Bùi Thu Thủy – Phó Cục trưởng Cục phát triển Doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư; PGS.TS Nguyễn Mạnh Quân – Viện trưởng Viện nghiên cứu và Phát triển Doanh nghiệp, trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ  Hà Nội
 
Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS Phạm Thị Thu Hằng – Tổng thư ký VCCI  cho biết, năm 2014 là một năm với đầy biến động và khó khăn thách thức đối với các DN. Trong nước, sản xuất kinh doanh chịu áp lực từ những bất ổn về kinh tế và chính trị của thị trường thế giới, cùng với những khó khăn từ những năm trước chưa được giải quyết triệt để như áp lực về khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế chưa cao; sức ép nợ xấu còn nặng nề; hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN còn khó khăn, năng lực quản lý và cạnh tranh của doanh nghiệp thấp, tồn kho hàng hóa vẫn ở mức cao...
 
TS Phạm Thị Thu Hằng cũng cho biết, năm 2014 cũng chứng kiến hàng loạt các DN phải thu hẹp quy mô sản xuất, cắt giảm nhân lực, thậm chí là ngừng hoạt động khiến nền kinh tế bị tác động không nhỏ, nhân sách thất thu, xã hội bất ổn. Chỉ tính riêng trong 9 tháng đầu năm 2014, cả nước đã có 48.330 DN gặp khó khăn buộc phải giải thể, hoặc đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn. 

Trước bối cảnh đó, Chính phủ đã ban hành nhiều  nghị quyết, chỉ thị, quyết định nhằm tiếp tục ổn định vĩ mô, tháo gỡ khó khăn và cải thiện  môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp. Đặc biệt là Chỉ thị 11 đã đưa ra các giải pháp để hoàn thành thắng lợi cho các DN hoàn thành kế hoạch năm 2015. Điều này nói lên rằng năm 2015 chúng ta sẽ tiếp tục nhận được nhiều sự hỗ trợ từ Đảng, Chính phủ, Nhà nước cho các DN hoạt động và phát triển.

TS Phạm Thị Thu Hằng – Tổng thư ký VCCI phát biểu khai mạc

Năm 2015 đã bắt đầu với nhiều tín hiệu tích cực cho nền kinh tế và thuận lợi cho sự phát triển của DN. Trong năm nay Việt Nam sẽ kết thúc việc đàm phán và ký Hiệp định TPP, FTA, với các đối tác và chính thức bước vào lộ trình cạnh tranh quốc tế một cách hoàn toàn nhất với đầy cam go và thách thức cũng như nhiều tín hiệu tích cực. Trong năm 2015, việc hoàn thiện các thể chế, chính sách cũng như cải cách sâu rộng các thủ tục hành chính cũng sẽ giúp các DN Việt Nam hoạt động ổn định hơn, thuận lợi hơn và phát triển tốt hơn.

“Tại buổi Hội thảo hôm nay có những nội dung rất quan trọng đó là việc công bố kết quả Báo cáo chỉ số kinh doanh năm 2014 của DN và đánh giá, tìm giải pháp cho năm 2015. Tôi cho rằng báo cáo này rất khoa học và chính xác bởi nó được xây dựng trên cơ sở những tài liệu chính xác nhất, công khai nhất và cập nhật nhất là Bản cáo bạch hàng năm của các DN đã được niêm yết trên sàn chúng khoán. Báo cáo này cũng rất hữu ích bởi nó sẽ phản ảnh được chính xác tình hình sức khỏe của doanh nghiệp, sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực và quan trọng hơn là nó chỉ ra được sự phát triển của cả nền kinh tế. Thông qua các phương pháp đánh giá hết sức khoa học và chính xác này các DN cũng tự soi được mình và rút kinh nghiệm để ngày càng hoàn thiện hơn, hoạt động hiệu quả hơn” – bà Hằng nhấn mạnh.

Báo cáo về Chỉ số Kinh doanh 2014, PGS.TS Nguyễn Mạnh Quân cho biết, Chỉ số Kinh doanh về tài chính được phản ánh rõ nét qua 6 nhóm chỉ số cơ bản sau: Chỉ số thanh toán, chỉ số hiệu quả kinh doanh, chỉ số đòn bẩy tài chính, hệ số lợi nhuận, hệ số bảo toàn vốn, và doanh thu.  

PGS.TS Nguyễn Mạnh Quân 

DN được lựa chọn để đánh giá là các doanh nghiệp niêm yết trên các sàn chứng khoán Việt Nam. Các DN này được lựa chọn vì 2 lý do:   Thứ nhất, thị trường chứng khoán luôn được nhiều nhà nghiên cứu coi là phong vũ biểu của nền kinh tế, và thứ hai có thể dễ dàng tiếp cận và đảm bảo tính khách quan và độ tin cậy của các thông tin về DN. 

Số lượng DN được khảo sát của năm 2013 là 391 DN; năm 2014 là 1088 DN. Số liệu về hoạt động tài chính của các DN nghiên cứu được rút ra từ báo cáo tài chính có kiểm toán của DN tập hợp từ nguồn khách quan. Trên cơ sở đó, DN được phân loại thành nhóm theo 2 tiêu chí: Giá cổ phiếu ≥10.000 đồng/cổ phiếu, và lãi trên cổ phần EPS ≥15%. 

Theo ông Quân, để thuận tiện cho người sử dụng, số liệu về năng lực hoạt động tài chính DN được trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau như bảng số liệu, sơ đồ, so sánh tương quan giữa các năm hay giữa DN với DN, giữa ngành với ngành. Bảng số liệu về 21 chỉ số chia làm 6 nhóm cho DN theo từng ngành, được rút ra từ báo cáo tài chính của DN trong 2 năm liên tiếp. So sánh sự thay đổi về từng chỉ số của từng DN trong từng ngành, từ đó rút ra nhận xét về chiều hướng thay đổi (tốt lên hay yếu đi) trong hoạt động của DN.

Báo cáo cũng cho thấy, tình trạng số DN đạt tiêu chí thay đổi trong từng ngành giữa hai năm ở một số ngành tăng, trong khi lại giảm ở một số ngành khác. Những thay đổi trong kết quả kinh doanh có thể dẫn đến tình trạng “chuyển nhóm”. "Chuyển nhóm được coi là tích cực nếu các doanh nghiệp chuyển từ nhóm đạt ít tiêu chí sang nhóm đạt nhiều tiêu chí; và ngược lại, sẽ bị coi là tiêu cực nếu chuyển từ nhóm đạt nhiều tiêu chí sang nhóm đạt ít tiêu chí" - ông Quân cho biết.

Về thay đổi thứ hạng của DN, theo ông Quân, thứ hạng DN được xét trên cơ sở tổng số điểm các chỉ tiêu của DN đã được quy đổi theo thang điểm có thể so sánh được với nhau. DN có tổng điểm cao hơn sẽ xếp ở vị trí cao hơn.Sự thay đổi về thứ hạng của DN  cho biết mức độ tiến bộ của DN so với các DN trong cùng nhóm, cùng ngành hay với các DN ở các ngành khác.Tăng thứ hạng là dấu hiệu tiến bộ, trong khi giảm thứ hạng là dấu hiệu của tình trạng hoạt động kém hiệu quả hơn so với các DN khác.   

Ông Quân cũng cho biết, tình trạng sức khoẻ của DN được nhận diện thông qua số lượng các chỉ số tài chính được ghi nhận là “Tốt lên” hay “Yếu đi”. Nếu xét ở phạm vi ngành, tình trạng này có thể gợi ý về tác động của ngành đối với nền kinh tế. Ngành có mức độ cải thiện. Xét một cách tổng thể, số lượng chỉ số “Tốt lên” tương đương với số lượng chỉ số “Yếu đi” của tất cả các DN cho biết tình trạng tài chính DN của nền kinh tế, qua các DN được xét, về cơ bản không thay đổi so năm 2014 với 2013. Tuy nhiên, xét theo ngành, mức độ tác động của ngành đến nền kinh tế là khác nhau và có thể dự đoán thông qua tỷ trọng các chỉ số “Tốt lên” của ngành: ngành có tỷ trọng này >50% sẽ có đóng góp tích cực và ngược lại. DN có tỷ trọng các chỉ số “Tốt lên” cao hơn sẽ đóng góp nhiều hơn cho ngành và cho nền kinh tế. 


Số lượng doanh nghiệp có số chỉ tiêu tốt lên chiếm trên 50%
 

Số lượng chỉ tiêu tốt lên của doanh nghiệp có số chỉ tiêu tốt lên nhiều nhất

 

Cũng từ những đóng góp có thể ghi nhận được của các DN qua các mức tiến bộ về thứ hạng của DN hay tỷ trọng cao nhất về số lượng chỉ số “Tốt lên” hoặc của chỉ một chỉ số nào đó một DN trong một ngành có thể đạt được, có thể xác định được những DN, ngành đáng để ghi nhận, tôn vinh về những thành tích và đóng góp của DN.

Ông Quân cũng chia sẻ: “Để có được một cách nhìn toàn diện hơn về DN cũng như để có căn cứ cụ thể hơn cho việc xây dựng những giải pháp hỗ trợ DN Việt Nam một cách hữu hiệu, chúng tôi dự kiến sẽ tiếp tục tiến hành các hoạt động khác theo hướng: Hỗ trợ DN trong việc nâng cao năng lực hoạt động theo tiêu chí quốc tế của bộ Chỉ số Tín nhiệm cho DNNVV (CIS) và giúp DN xây dựng Hồ sơ DN (Business Profile) theo tiêu chuẩn quốc tế, nhằm góp phần giúp DN trong việc tiếp cận nguồn tài chính quốc tế và hội nhập thành công vào thị trường toàn cầu”. 

Đánh giá về báo cáo chỉ số kinh doanh 2014, PGS.TS Đặng Văn Thanh cho biết, năm  nay, việc đánh giá năng lực hoạt động của doanh nghiệp được thông qua các chỉ số kinh doanh. Đây là tài liệu được biên soạn dưới hình thức báo cáo thường niên nhằm cung cấp cho các nhà nghiên cứu, quản lý, phân tích và đầu tư những thông tin cơ bản về hoạt động của DN thuộc các ngành, các lĩnh vực khác nhau trong một năm và những thay đổi đạt được so với năm trước. 

PGS.TS Đặng Văn Thanh 
Chỉ số kinh doanh và những công cụ khác của chương trình sẽ cung cấp cho các nhà quản lý DN, các nhà đầu tư, các nhà nghiên cứu những phương tiện hữu hiệu để có thể phân tích, đánh giá năng lực hoạt động của bản thân doanh nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế. 

Tài liệu Chỉ số kinh doanh: Năng lực tài chính tập trung phân tích, đánh giá một khía cạnh quan trọng trong hoạt động của DN. Thông tin và tư liệu sử dụng để biên soạn tài liệu này là thông tin, số liệu được chọn lọc, tổng hợp, phân tích từ các báo cáo tài chính độc lập hoặc báo cáo tài chính hợp nhất, đã được kiểm toán của các công ty, tổng công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

“Việc lựa chọn các công ty niêm yết để nghiên cứu, để phân tích, bởi vì đây là những công ty có Báo cáo tài chính đã được đánh giá, xác nhận bởi các kiểm toán viên của công ty kiểm toán độc lập. Hơn nữa, Báo cáo tài chính, báo cáo thường niên của các Công ty niêm yết phải công khai cùng với bản cáo bạch. Số liệu từ các báo cáo tài chính của doanh nghiệp vào thời điểm cuối năm luôn là nguồn thông tin đáng tin cậy đối với các nhà nhà quản lý, các nhà đầu tư, các nhà nghiên cứu và phân tích tài chính, kinh tế” – ông Thanh nói.

Ông Thanh cho biết: Chỉ số cung cấp thông tin về hoạt động và năng lực tài chính của các DN thông qua sáu nhóm chỉ số cơ bản: chỉ số hay hệ số  thanh toán, chỉ số đòn bẩy tài chính, chỉ số lợi nhuận, hệ số sinh lời, hệ số bảo toàn vốn và doanh số. Việc so sánh giữa các doanh nghiệp cùng lĩnh vực, cùng ngành nghề  và so sánh chéo được tạo thuận lợi bằng cách quy đổi thành điểm theo một thang điểm cơ sở chung cho từng chỉ số. Cách tính điểm, xếp hạng sẽ cung cấp cho người quan tâm, người sử dụng có thêm thông tin về khoảng cách tương đối giữa các doanh nghiệp so sánh và “mức đóng góp” của doanh nghiệp đối với ngành và đối với cả nền kinh tế. Thông tin về năng lực hoạt động của DN được cung cấp trong chỉ số kinh doanh gồm các chỉ số, các hệ số về hoạt động tài chính trong 2 năm liên tiếp. 

Qua việc cung cấp dữ liệu chính về các chỉ số tài chính trên được tổng hợ, tính toán từ các thông tin trên  báo cáo tài chính, báo cáo tài chính hợ nhất của các công ty đã  được kiểm toán. Việc xử lý thông tin bằng cách quy điểm và so sánh sẽ chỉ ra chiều hướng, xu thế và mức độ thay đổi của các chỉ số qua các năm. Đồng thời, việc so sánh các thông tin, các số liệu mang tính so sánh cũng cho phép chỉ ra những công ty đạt được mức tốt nhất về một chỉ số nào đó của mỗi ngành trong 34 ngành để tập hợp thành một danh sách các DN đạt chỉ số tốt nhất của mỗi ngành.

Ông Thanh khẳng định: Chỉ số kinh doanh được tính toán, phân tích từ các báo cáo tài chính của các DN niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam là căn cứ thực tế đáng tin cậy phản ánh đặc điểm trạng thái của nền kinh tế trong một năm để các các DN so sánh, đánh giá. Đặt biệt, với tài liệu chỉ số này, DN bất kỳ không nằm trong danh sách này đều có thể tự đánh giá tình trạng hoạt động của mình và so sánh với các DN trong danh sách cùng ngành hoặc khác ngành. 

Ngoài những thông tin về DN trong các ngành, nhóm DN, DN cụ thể có tên trên các sàn chứng khoán Việt Nam, chỉ số kinh doanh còn bao gồm các bài viết, báo cáo nghiên cứu, tư vấn, phân tích chính sách cho DN và về DN với mục đích cung cấp cho các nhà quản lý, nhà đầu tư, nghiên cứu và phân tích về những định hướng lớn, chính sách của chính phủ, những kết quả nghiên cứu về tình hình hoạt động và phát triển của DN.

Chia sẻ về thực trạng các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), bà Bùi Thu Thủy - Phó Cục trưởng Cục phát triển DN, Bộ Kế hoạch Đầu tư cho biết: Trong những năm gần đây, DNNVV gia tăng mạnh mẽ về số lượng. Cụ thể, số lượng DN thành lập mới năm 2014 tăng 1,63 lần so với năm 2006. Đỉnh cao là năm 2009-2010, số DN thành lập đạt 84.300 DN. 

Bà Bùi Thu Thủy - Phó Cục trưởng Cục phát triển DN, Bộ Kế hoạch Đầu tư
 
Đóng góp của DNNVV: DN ngoài nhà nước với 98,6% là DNNVV luôn chiếm tỷ trọng ở mức 48-49% tổng GDP toàn xã hội trong giai đoạn 2009-2012; đóng góp ngân sách khoảng 1/3 (34% giai đoạn 2011-2012); chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tỷ trọng việc làm được tạo ra từ khu vực DNNVV tăng dần qua các năm: 45%  năm 2010 lên 47% năm 2012 của tổng số LD trong khối DN. Thu nhập bình quân/lao động tăng dần theo các năm: 42 triệu đồng/năm 2010 lên 61 triệu đồng/ năm 2012.

Tình hình sản xuất kinh doanh của DNNVV, theo bà Thủy, DNNVV vẫn thiếu vốn sản xuất kinh doanh, chủ yếu dựa vào vốn tự có và khó tiếp cận vốn vay ngân hàng. Doanh thu, lợi nhuận của DNNVV đang có xu hướng giảm: Năm 2010, DNNVV chiếm 46,84% tổng doanh thu của toàn bộ khu vực doanh nghiệp, lợi nhuận trước thuế thấp chỉ chiếm 22,87% của toàn bộ khu vực DN. Năm 2011 doanh thu giảm, chiếm 34,0%. Năm 2012 doanh thu tăng, chiếm 43,7% nhưng lợi nhuận giảm thấp xuống tỷ lệ 7,26%. Tỷ lệ DN thua lỗ, chủ yếu là DNNVV tăng từ 25,14% năm 2010 lên 65,8% (2013). Tỷ lệ DN kinh doanh có lãi cũng giảm từ 64,12% năm 2010 xuống còn 34,2% (2013).

“Mặc dù đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, đóng góp ngân sách nhà nước và ổn định kinh tế xã hội, DNNVV Việt Nam còn rất hạn chế về quy mô, vốn, công nghệ, trình độ quản lý dẫn đến hạn chế về năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động” – bà Thủy cho biết. 

Bà Thủy cũng chỉ ra những hạn chế cản trở sự phát triển DNNVV: Thứ nhất, quy mô DN chủ yếu nhỏ và vừa: Xét theo quy mô lao động có tới 97,7% số DN có quy mô nhỏ và vừa. Xét về quy mô vốn: có tới 94,8% số DN quy mô vốn nhỏ và vừa. Đáng lưu ý hơn là trong khu vực DN tư nhân trong nước có tới 98,6% là quy mô nhỏ và vừa, trong đó chủ yếu là DN nhỏ và siêu nhỏ, tỷ lệ DN quy mô vừa chỉ chiếm 1,6%. Thứ hai, hạn chế trong tiếp cận tín dụng: Các DNNVV và mặc dù chiếm trên 98% tổng DN nhưng lại hạn chế trong tiếp cận tín dụng: Dư nợ tín dụng cho DNTN tháng 3/2014 chiếm khoảng 50% tổng dư nợ (so với 16% của DNNN và 7% DN FDI); khoảng 30% DNNVV có tiếp cận vốn vay ngân hàng; số lượng DNNVV vay vốn từ các ngân hàng thương mại giảm hơn 1.200 DN trong chưa đầy 2 năm 2012-2013; tổng dư nợ cho DNNVV vay cũng giảm hơn 6.000 tỷ đồng trong vòng 9 tháng đầu năm 2013 (NHNN). Thứ ba, trình độ công nghệ của DN thấp, tốc độ đổi mới chậm và hoạt động hỗ trợ DNNVV của Chính phủ hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu.

Một số giải pháp cơ bản hỗ trợ phát triển DNNVV trong thời gian tới:  Thứ nhất, tái cơ cấu thị trường tài chính, cải thiện khả năng tiếp cận vốn cho DNNVV bằng cách đơn giản hóa thủ tục cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho DNTN tiếp cận vốn với lãi suất và điều kiện cho vay phù hợp; mở rộng áp dụng hình thức đánh giá tín nhiệm DN để tăng cường khả năng cho vay tín chấp cho DN; phát triển hình thức thuê tài chính giúp DNNVV tăng năng lực sản xuất trong điều kiện hạn chế về vốn; đẩy nhanh đưa Quỹ phát triển DNNVV vào vận hành, hỗ trợ vốn cho DN. Đồng thời có cơ chế thúc đẩy các Quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động ở Việt Nam; Chính phủ có cơ chế hợp tác với các Quỹ đầu tư mạo hiểm cùng đầu tư vào các DNNVV đổi mới sáng tạo.

Thứ hai, nâng cao năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo của DN. Đẩy nhanh tiến độ triển khai các chương trình hỗ trợ chuyển giao, đổi mới công nghệ, chương trình nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa, năng lực cạnh tranh cho DN. Đẩy mạnh hợp tác và chia sẻ công nghệ giữa DNNVV với doanh nghiệp lớn, DNTN tư và DNNN, DN FDI, các tổ chức nghiên cứu và các trường đại học. Thiết lập các trung tâm thử nghiệm sản phẩm, thiết kế sản phẩm, kiểm tra nguyên vật liệu cho các DNTN, DNNVV ở một số ngành ưu tiên. Hỗ trợ phát triển thị trường công nghệ. khuyến khích và thúc đẩy hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo DN công nghệ; đẩy mạnh việc chuyển giao kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh, thương mại hoá.

Thứ ba, có cơ chế để DNNVV tham gia dự án đầu tư lớn của nhà nước; có cơ chế tạo điều kiện cho DNNVV tham gia thực hiện thí điểm các dự án trong một số lĩnh vực, ngành nghề mà hiện tại chủ yếu do các tập đoàn kinh tế nhà nước thực hiện với các điều kiện ưu đãi về nguồn lực và hỗ trợ của Chính phủ như đang áp dụng cho DNNN. Chính phủ có chính sách quy định tỷ lệ tối thiểu mua sắm của các cơ quan Nhà nước ưu tiên dành cho DNNVV tạo cơ hội mở rộng thị trường cho DNNVV. Chính phủ cần xác định “sản phẩm có khả năng cạnh tranh của DNNVV”. Chính phủ khuyến khích các cơ quan nhà nước áp dụng phương pháp đấu thầu cạnh tranh hạn chế cho các DNNVV tham gia khi mua sắm sản phẩm này. Nhà thầu là DNNVV được hưởng ưu đãi khi tham gia đấu thầu trong nước để cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, xây lắp theo quy định của Luật Đấu thầu. 

Thứ tư, phát triển liên kết giữa các DNNVV và giữa DNNVV với DN lớn. Chính phủ có chính sách khuyến khích hợp tác giữa các DNNVV theo mô hình cụm, nhóm DN có ngành nghề chung hoặc ngành nghề bổ trợ cho nhau nhằm phát triển liên kết giữa các DN, tăng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng và tăng cường năng lực cho DN. 

Tại Hội thảo, TS Võ Trí Thành – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho biết, DNNVV Việt Nam cũng giống như mọi DNNVV các nước. Tuy nhiên DNNVV Việt Nam có hai điểm yếu hơn so với các nước. Thứ nhất, cùng có số lượng như nhau nhưng DNNVV Việt Nam lại đóng góp cho GDP thấp hơn các nước. Thứ hai, nếu nhìn chung trong nền kinh tế thế giới, DNNVV Việt Nam rất ít, DN lớn lại càng ít hơn. Chính vì vậy, chúng ta không có nhiều lợi thế để tham gia vào chuỗi hội nhập và hiệu ứng lan tỏa của DN Việt Nam rất thấp cả về mặt công nghệ và kỹ năng quản trị.

 
TS Võ Trí Thành – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

Chia sẻ về môi trường kinh doanh trên thế giới, TS Võ Trí Thành cho biết, thế giới ngày nay là thế giới của lĩnh vực kinh doanh mới, kinh tế hiện nay là kinh tế tiền tệ, kinh tế internet. Kinh tế, kinh doanh luôn gắn với công nghệ và hội nhập. Thế giới ngày nay là thế giới xanh hơn, trong đó có gồm yêu thương xanh, kinh tế xanh và biểu tượng xanh. Việc doanh nghiệp và người dân yêu màu xanh có nghĩa là đã đóng góp cho bảo vệ môi trường. Đặc biệt, một đặc trưng rõ nhất có thể nhìn thấy đó là thế giới ngày nay là thế giới của người tiêu dùng với sự tham gia của nhiều tầng lớp trung lưu.

Theo TS Võ Trí Thành, dự báo năm 2015 tiền tệ, lạm pháp sẽ thấp, sẽ linh hoạt hơn, nhưng đây cũng là một năm khó khăn trong bối cảnh đồng đô la rớt mạnh. Ngoài ra, còn nhiều khó khăn trong chính sách tài khóa, phát hành trái phiếu.

Bên cạnh việc cụ thể hóa Luật Doanh nghiệp, năm nay chúng ta sẽ đẩy mạnh hơn nữ kỷ luật thị trường thông qua các chế tài chống hàng giả, hàng nhái… Cùng với đó, việc thực hiện Luật Cạnh tranh cũng sẽ được đẩy mạnh hơn. 

ASEAN là quá trình tự do hóa. Tham gia vào thị trường này, chúng ta phải cơ bản dựa vào luật chơi thị trường – đó là một thị trường tự do sâu, mạnh nhưng cũng là một thị trường kỷ luật, giám sát mạnh mẽ hơn. Tự do hóa chỉ đem lại cơ hội theo nghĩa tĩnh, nhưng về dài hạn, chúng ta phải nghĩ đến sáng tạo để tìm được giá trị gia tăng tốt hơn. Ví dụ, xuất khẩu cá basa rất tốt, nhưng nếu chúng ta chỉ xuất khẩu con cá thôi thì đến 10 năm nữa cũng chưa gia tăng giá trị được.  

TS Nguyễn Thị Thu Trang – Giám đốc Trung tâm WTO (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam)  trình bày về những cơ chế và chính sách mới khi Việt Nam gia nhập AEC, TPP và các FTA song phương. Theo TS Nguyễn Thị Thu Trang, nếu xét về tốc độ hôi nhập trong vòng 20 năm (từ 1995 đến 2015) thì Việt Nam đã làm được khá nhiều bằng việc các FTA ‘đã’ ký kết như VKFTA, VCUFTA, RCEP và Việt Nam đang tiến hành đàm phán gần đi đến hồi kết với các Hiệp định TPP, FTA với EU, với Nga, với EFTA, với Hàn Quốc, Ấn Độ...

So sánh các FTA ‘đã’ ký kết VKFTA, VCUFTA, RCEP với các FTA ‘sắp’ cho thấy, trong những FTA đã ký kết thì hầu như chỉ tập trung vào thuế. Về mức độ tự do thì FTA đã ký bị hạn chế hơn. Đặc trưng của FTAs sắp tới như TPP, EVFTA, EFTA thiết lập đối tác mới, với phạm vi rộng hơn và mức độ tự do hoá mạnh hơn và mức độ tác động không chỉ xuất nhập khẩu mà còn ở thị trường và thể chế. Lĩnh vực thương mại hàng hoá FTAs sắp ký kết tiếp cận thị trường nhiều hơn và xu hướng cơ bản là loại bỏ thuế (0%) đối với 95%-100% số dòng. 


TS Nguyễn Thị Thu Trang – Giám đốc Trung tâm WTO  
 
Xu hướng cơ bản của các FTAs thế hệ mới là cạnh tranh bình đẳng, cạnh tranh thắt chặt với DNNN, Trung ương và địa phương, các lĩnh vực; Minh bạch thủ tục mua sắm công, các cơ quan Nhà nước cụ thể phải tuân thủ nguyên tắc mua sắm công, có quyền lao động cơ bản (các công ước ILO cơ bản), quyền tự do lập hội, giải quyết tranh chấp; Các công ước bảo vệ môi trường cơ bản, giải quyết tranh chấp, cạnh tranh, SME, thuận lợi hoá thương mại hải quan.

Theo TS Trang, 2015 – năm của những chính sách tiếp tục và sẽ là năm của sự chuẩn bị cho những chính sách mới và lộ trình mở cửa của Việt Nam. Những FTA đã ký kết sẽ tiếp tục lộ trình mở cửa 2 năm, 5 năm, 7 năm. Liên quan tới từng lộ trình mở cửa thì Bộ tài chính sẽ ban hành chính sách thuế phù hợp với từng giai đoạn.

2015 là năm thực hiện cuối cùng để thực hiện giảm các dòng thuế về 0% đối với hầu hết các mặt hàng, còn các FTA khác sẽ được cắt giảm rất mạnh. Doanh nghiệp cần phải biết chúng ta đang mở cửa đến đâu để có lộ trình cho sự chuẩn bị nhằm vượt qua những tiêu chuẩn cần thiết và khó khăn. Ví dụ khi tham gia FTAs thì các mức thuế về 0% nhưng đối với từng mặt hàng sẽ có các quy tắc xuất xứ, TBT, SPS, TR, cạnh tranh với hàng cùng loại nước ngoài nhập khẩu, cạnh tranh với dịch vụ cùng loại từ nước ngoài...riêng.

TS Trang tha thiết bày tỏ “2015 trên bề mặt không có gì nhưng ở dưới sẽ có rất nhiều sóng ngầm. Thông tin là quyền lực do đó các doanh nghiệp cần nắm được những thông tin về lộ trình mở cửa FTAs để xây dựng lộ trình hoạt động cho doanh nghiệp mình”.

Đánh giá của Hội Doanh nghiệp Trẻ về “Các quyết sách của Chính phủ đã hỗ trợ DN như thế nào?”,ông Lê Vĩnh Sơn - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân trẻ Việt Nam cho biết, kết thúc năm 2014, mặc dù chịu nhiều những tác động bất lợi của tình hình kinh tế, chính trị thế giới, kinh tế Việt Nam lại ghi nhận những kết quả hết sức khả quan, đạt bước tăng trưởng liên tiếp trong các quý gần đây. Cụ thể, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2014 ước đạt 5,98% so với năm trước, vượt mục tiêu Quốc hội đề ra là 5,8 %, CPI bình quân cả nước tăng 4,09 % so với năm 2013, là tốc độ tăng tương đối thấp trong khoảng 10 năm gần đây. Tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 150 tỷ đô la Mỹ. Những thành tích này, xuất phát từ quyết tâm của Chính phủ trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho sự phát triển của cộng đồng DN. 

 

Ông Lê Vĩnh Sơn - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân trẻ Việt Nam

Ông Sơn cho biết, Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam đa số là các DNNVV hoạt động trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề nên rất nhạy cảm đối với những thay đổi trong chính sách điều hành của Chính phủ. Với tư cách vừa là đối tượng thụ hưởng chính sách, và giữ vai trò tư vấn góp ý, Hội nhận thấy, những quyết sách của Chính phủ đã hỗ trợ DN trên rất nhiều mặt, cụ thể:

Cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế và hải quan: Đã giảm thiểu đáng kể thủ tục hành chính thuế như rút ngắn thời gian hoàn thuế GTGT đối với trường hợp hoàn thuế trước, kiểm tra sau (giảm từ 15 ngày xuống 6 ngày); thay đổi về thuế suất thuế thu nhập DN như: thuế suất phổ thông giảm từ 25% xuống còn 22%, DN có doanh thu không quá 20 tỷ đồng/năm xuống 20% (và còn tiếp tục giảm theo lộ trình); kê khai nộp thuế GTGT theo quý (thay vì theo tháng)… Kết quả thực hiện về kê khai thuế điện tử cũng cho thấy, tính đến ngày 25/10/2014, cả nước đã có 416.689 DN khai thuế qua mạng (chiếm 85,5% số DN đang hoạt động). 

Về tình hình tài chính, tín dụng: Trong năm 2013 và các tháng đầu năm 2014, trên cơ sở bám sát các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-NNHH ngày 15/1/2014 về tổ chức chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả. Theo đó, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, chủ động nhằm giảm lạm phát, giảm mặt bằng lãi suất, ổn định lãi suất, ổn định tỷ giá, quản lý thị trường vàng, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường kinh doanh của DN.

Về tình hình bất động sản: Năm 2014 có sự phục hồi của thị trường bất động sản phân khúc nhà ở xã hội, nhà ở bình dân, với mức giao dịch thành công được thực hiện qua sàn giao dịch ở Hà Nội trong vòng 11 tháng tăng gấp đôi, còn ở TP HCM tăng trên 1/3 năm 2013. Trong lĩnh vực này, Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam cũng đã góp sức trong việc hỗ trợ sự lành mạnh của thị trường thông qua việc thực hiện các khảo sát, nghiên cứu về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính trong chuỗi đầu tư – đất đai – xây dựng. Các kết quả này đã được tổng hợp, báo cáo chính phủ và hiện thực hóa thành chỉ đạo cụ thể.

Về hỗ trợ DN xúc tiến thương mại: Năm 2013, Chương trình  xúc tiến thương mại quốc gia với tổng kinh phí thực hiện là 93.730 triệu đồng, đã phê duyệt 138 đề án với hơn 6.834 lượt DN tham gia, trong đó có 6.000 lượt DNNVV tham gia với 10.583 gian hàng, 281.385 lượt giao dịch, 572 hợp đồng, biên bản ghi nhớ được ký kết đạt giá trị hơn 1,4 tỷ USD và 162 tỷ đồng; thu hút được 1.850 lượt khách tham quan, mua sắm tại các hội chợ, phiên chợ và doanh thu đạt 380,8 tỷ đồng. Sự hỗ trợ từ Chương trình đã tạo điều kiện cho các DN đưa các sản phẩm xuất khẩu Việt Nam tại các thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản ngày càng mở rộng. Chương trình đã hỗ trợ nhiều DN có cơ hội trở lại thị trường Nga và các nước Đông Âu cũ, tăng cường hoạt động tại thị trường Myanmar, Lào, Camphuchia và một số nước Châu Mỹ Latinh và Châu Phi; xúc tiến đẩy mạnh hoạt động thương mại, đầu tư, nâng cao vị thế và hình ảnh của Việt Nam. Chương trình đã đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước.  

Ông Sơn chia sẻ, cơ chế, chính sách trợ giúp DN đã được xây dựng và ban hành khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực, bất chấp những hạn chế trong quá trình thực thi vẫn cho thấy những nỗ lực hết sức tích cực của Chính phủ tiếp sức cho cộng đồng DN. “Trong năm 2015 và thời gian tới, bằng việc nghiên cứu, lắng nghe tiếng nói của các tổ chức, chuyên gia, doanh nhân, những chính sách tốt, thiết thực sẽ tiếp tục được phát huy, nhằm tạo lập  môi trường kinh doanh lành mạnh, giúp DN yên tâm hoạt động, sản xuất, kinh doanh” – Ông Sơn nhấn mạnh.  

Chia sẻ tại Hội thảo, bà Trần Thị Hồng Hạnh – Tổng thư ký Hiệp hội ngân hàng  cho rằng bên cạnh việc nắm rõ các cơ hội từ việc mở cửa thì quan trọng vẫn là ‘sức khỏe’ của DN. Nhìn một tổng thể, sức khỏe của DN không đạt được chỉ số tài chính thì việc nắm bắt cơ hội cũng khó khăn hơn. Khi DN ‘không khỏe’ ngân hàng đầu tư vào dẫn đến việc tái cơ cấu càng chậm và nợ xấu càng phát sinh. Do đó, ngân hàng đã và đang thực hiện những hỗ trợ tốt nhất cho DN nhưng về phía DN cũng cần phải làm thế nào để đảm bảo sức khỏe tài chính của DN mình. Khi DN và ngân hàng hiểu được nhau thì việc kết nối sẽ tốt hơn.  

 
Bà Trần Thị Hồng Hạnh – Tổng thư ký Hiệp hội ngân hàng  
 
Một DN chia sẻ tại hội thảo: Theo quan điểm cá nhân của tôi, người Việt Nam thích nghi rất nhanh với  sự đổi mới nên thuận lợi nhất của ta là sự thích nghi khi hội nhập. Càng khó khăn bao nhiêu chúng ta lại càng biết vươn lên và chớp lấy cơ hội bấy nhiêu.

“Chúng ta có nhiều điều kiện để nghiên cứu khoa học, có nhiều cơ hội để tiếp xúc kinh nghiệm các nước trên thế giới nên chúng ta phải vận dụng và ứng dụng một cách hiệu quả tại Việt Nam chứ không nên máy móc. Tôi nghĩ doanh nhân Việt Nam rất nhiều người ở tầm cao, suy nghĩ lớn và mong muốn của người ta là cống hiến cho đất nước. Tuy nhiên có một thực tế là năng suất lao động của chúng ta chưa cao và cần phải nhìn nhận vào thực tế”
 - DN này nhấn mạnh. 

Sau gần 3 giờ đồng hồ làm việc khẩn trương và nghiêm túc, Hội thảo “Thách thức phát triển DN năm 2015” đã kết thúc tốt đẹp. Phát biểu bế mạc Hội thảo, ông Đặng Văn Thanh – Chủ tịch Hội Kế toán Kiểm toán Việt Nam cho biết, các vị khách mời đã được nghe rất nhiều ý kiến đóng góp của các diễn giả cũng như các DN tại Hội thảo. Hội thảo cũng đã công bố báo cáo về chỉ số kinh doanh và những công cụ khác của chương trình. Hy vọng, các công cụ này sẽ cung cấp cho các nhà quản lý DN, các nhà đầu tư, các nhà nghiên cứu những phương tiện hữu hiệu để có thể phân tích, đánh giá năng lực hoạt động của bản thân DN theo tiêu chuẩn quốc tế.

                                                                                                                     Theo: dddn.com.vn
 

Các tin khác