Ông Bùi Văn Mai, Tổng thư ký Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam đã chia sẻ một số suy nghĩ xung quanh chủ đề này.
Có một thực tế đang diễn ra trên thị trường chứng khoán Việt Nam là nhiều doanh nghiệp công bố lãi trong 11 tháng của năm 2008 nhưng đến quý 4/2008 lại lỗ rất lớn. Ông thấy có điều gì vô lý?
Thông thường lãi/lỗ một năm bằng tổng số lãi/lỗ của các quý cộng lại. Nhưng báo cáo tài chính quý là chưa chính thức vì báo cáo tài chính quý dùng để quản trị doanh nghiệp mà thôi.
Theo quy định trên thị trường chứng khoán, doanh nghiệp phải công bố báo cáo tài chính quý, đây là điều cần thiết.
Nhưng do báo cáo tài chính quý không bắt buộc nhiều các thủ tục như là báo cáo tài chính năm như: không phải kiểm kê hàng tồn kho, đối chiếu công nợ..., nên báo cáo quý cũng chưa thật chuẩn xác, nhất là nhiều công ty niêm yết muốn giá cổ phiếu được cao thì tâm lý muốn công bố báo cáo quý lãi, đẹp, những tồn tại không muốn trưng ra.
Ngoài chuyện tôi nói ở trên, riêng năm 2008 có chuyện khủng hoảng kinh tế quốc tế. Càng về cuối năm, tình hình kinh tế càng khó khăn, dẫn đến chuyện doanh nghiệp càng về cuối năm càng lỗ nhiều.
Đó là những nguyên nhân khách quan dẫn đến việc doanh nghiệp quý 4 hoặc cả năm 2008 lỗ lớn.
Bây giờ sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý, nhà đầu tư đã nhiều hơn nên doanh nghiệp muốn giấu cũng không được. Bản thân các công ty kiểm toán cũng làm với tinh thần trách nhiệm cao hơn rất nhiều, họ cũng sợ những rủi ro nên kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hơn.
Chẳng hạn như việc trích lập dự phòng, nếu trước đây doanh nghiệp cũng lập nhưng chưa đầy đủ thì hiện giờ kiểm toán viên chắc chắn họ sẽ không đồng ý.
Với những báo cáo tài chính hàng quý như vậy, liệu có đáng tin cậy không thưa ông?
Trong 6 kiến nghị mà Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) và Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) đề xuất với Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng khoán, chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh tới kiến nghị: cần phải có kiểm toán giữa kỳ và báo cáo tài chính quý cũng cần được kiểm tra, kiểm soát.
Tất nhiên, đối với báo cáo quý người ta không dùng từ là kiểm toán vì không thể làm được đầy đủ hết các thủ tục theo yêu cầu như báo cáo tài chính năm, mà chỉ dùng là soát xét báo cáo.
Vì trong chuẩn mực kiểm toán do Bộ Tài chính ban hành có chuẩn mực 910, quy định soát xét các thông tin tài chính trước khi công bố của báo cáo quý như thế nào, có quy định tất cả các thủ tục giúp cho kiểm toán viên nếu thực hiện đúng sẽ hạn chế được rất nhiều những sai sót của báo cáo tài chính quý.
Với lực lượng công ty kiểm tóan được phép kiểm toán các doanh nghiệp niêm yết quá ít như hiện nay thì yêu cầu đó có là quá tải không, thưa ông?
Tất nhiên nếu nói mà làm ngay sẽ khó. Như tôi đã nói hàng quý, có thể soát xét ngay và nếu không đủ nhân lực thì 6 tháng làm 1 lần, nghĩa là 6 tháng soát xét báo cáo quý 1 và 2 để có mối liên hoàn với nhau.
Như vậy cũng làm giảm đi một nửa rủi ro. Còn sau này nếu nhu cầu nhiều thì đương nhiên số lượng các công ty kiểm toán cũng nhiều lên.
Ông có lời khuyên gì cho nhà đầu tư khi đọc các báo cáo tài chính?
Nhà đầu tư phải có những hiểu biết về kinh tế, tài chính, kế toán, kiểm toán. Trước hết là như thế vì các số liệu của báo cáo tài chính có nhiều số liệu chuyên ngành nên sẽ rất khó nếu người nào không có kiến thức, sẽ không thể hiểu.
Thứ hai, nhà đầu tư khi mua cổ phiếu thuộc doanh nghiệp nào thì phải xem xét diễn biến hoạt động của doanh nghiệp đó nhiều thời kỳ chứ không phải từ thời điểm mua quá khứ, hiện tại và tương lai.
Thứ ba, nhà đầu tư cần phải nghiên cứu kỹ ý kiến của kiểm toán viên, bởi họ là người có năng lực chuyên môn, những ý kiến của họ cũng mang đến những sức nặng nhất định, hàm chứa tất cả những thông tin rất căn bản trong báo cáo tài chính, nhất là khi kiểm toán viên đưa ra ý kiến ngoại trừ chẳng hạn.
Nếu tôi là nhà đầu tư thì tôi không bao giờ đầu tư vào những doanh nghiệp có báo cáo tài chính bị kiểm toán viên ngoại trừ, bởi vì đó là những điều kiểm toán viên không thể khẳng định.
Đó cũng là do doanh nghiệp không công bố hết cho kiểm toán viên, che giấu thông tin. Với các báo cáo có ý kiến như vậy thì mức độ tin tưởng rất thấp.
Ý KIẾN BẠN ĐỌC VỀ CHỦ ĐỀ NÀY
(Các ý kiến bạn đọc được đăng tải không nhất thiết phản ánh quan điểm của Tòa soạn. VnEconomy có thể biên tập lại ý kiến của bạn nếu cần thiết.)
Phạm Quốc Khánh
Trong vấn đề kiểm toán, một điểm quan trọng là chất lượng của chuẩn mực kế toán phải được xem xét lại. Với những quy định của IAS (chuẩn mực kế toán quốc tế) thì nhân viên kiểm toán có cơ sở để yêu cầu các doanh nghiệp trích lập dự phòng, đánh giá lại toàn bộ tài sản một cách có cơ sở chứ không để tình trạng áp dụng VAS chuẩn mực kế toán Việt Nam), doanh nghiệp tha hồ cherry picking, hay dồn lỗ, dồn lãi cho những mục đích riêng của doanh nghiệp.
Một điểm khác nữa là các doanh nghiệp kiểm toán có uy tín thường rút lui khi không thể kiểm soát nổi rủi ro khi báo cáo tốt cho khách hàng (tất nhiên họ không muốn báo cáo là có gian dối, vì doanh nghiệp chính là người trả tiền cho họ), báo chí, truyền thông hãy hướng dẫn mọi người cách hiểu các ý nghĩa của hoạt động kiểm toán để nhà đầu tư hiểu những rủi ro của mình, để doanh nghiệp nhận thức được đúng nghĩa vụ minh bạch thông tin của mình trước nhà đầu tư.