“Chủ đầu tư cam kết cấp sổ đỏ cho căn hộ dưới 45m2 là không đúng luật"
 
 Luật sư Triệu Trung Dũng, Trưởng văn phòng luật sư Triệu Dũng và Cộng sự cho biết, cam kết cấp sổ đỏ cho những căn hộ dưới 45 m2 của chủ đầu tư tại KĐT mới Đại Thanh là không đúng luật.

Liên quan đến việc chủ đầu tư khu đô thị mới Đại Thanh (Thanh Trì, Hà Nội) là Công ty Cổ phần Xây dựng số 1 Lai Châu cam kết sẽ cấp sổ đỏ cho khách hàng mua những căn hộ dưới 45m2 tại dự án này, trong khi đó hiện nay pháp luật chưa cho phép cấp “sổ đỏ” cho những căn hộ này. 

Phóng viên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Luật sư Triệu Trung Dũng, Trưởng văn phòng Luật sư Triệu Dũng và Cộng sự để làm rõ tính pháp lý về việc cấp sổ đỏ cho những căn hộ này

Luật sư Triệu Trung Dũng cho biết cam kết cấp sổ đỏ cho những căn hộ dưới 45 m2 tại KĐT Đại Thanh của chủ đầu tư là không đúng luật
Luật sư Triệu Trung Dũng cho biết: “Theo quy định của Luật Nhà ở, Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn thì việc mua bán căn hộ thương mại của Công ty Cổ phần Xây dựng số 1 Lai Châu là loại hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. 

Việc bán những căn dưới 45m2 và cam kết sẽ cấp sổ đỏ cho khách hàng là không đúng quy định tại khoản 1 điều 40 Luật Nhà ở áp dụng đối với nhà ở Thương mại: “Nhà chung cư phải thiết kế căn hộ khép kín, có diện tích sàn xây dựng mỗi căn hộ không thấp hơn 45 m2”. 
 
Tức là đủ điều kiện này mới được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở thì rõ ràng cam kết này của chủ đầu tư là không đúng quy định. Nếu chủ đầu tư cho rằng cam kết này là đúng thì phải công khai quyết định phê duyệt dự án và các văn bản khác đã được phê duyệt về việc được phép xây dựng căn hộ dưới 45m2 để bán (trừ dự án xây dựng nhà ở xã hội). 
 
Đây cũng là quy định về tính công khai, minh bạch trước khi ký hợp đồng bán nhà ở và việc làm thủ tục xin cấp “sổ đỏ” cho chủ sở hữu nhà chung cư quy định tại đoạn 3 điểm đ, khoản 1 điều 8 Nghị định 88/2009/NĐ-CP: “Trường hợp nhà ở do mua của doanh nghiệp đầu tư xây dựng để bán thì phải có hợp đồng mua bán nhà ở do hai bên ký kết; trường hợp mua nhà kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 (ngày Luật Nhà ở có hiệu lực thi hành) thì ngoài hợp đồng mua bán nhà ở, bên bán nhà ở còn phải có một trong các giấy tờ về dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán (quyết định phê duyệt dự án hoặc quyết định đầu tư hoặc giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đầu tư”.

Những căn hộ dưới 45 m2 được chào bán tại sàn giao dịch bất động sản Mường Thanh
Luật sư Triệu Trung Dũng cũng cho biết thêm, việc chủ đầu tư xây dựng và bán căn hộ dưới 45m² nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho những hộ có thu nhập thấp. Tuy nhiên, kể cả trong trường hợp có chứng minh dự án xây dựng căn hộ dưới 45m² được phê duyệt và có văn bản nêu sẽ được cấp “sổ đỏ” thì Hợp đồng mua bán nhà chung cư này cũng phải tuân thủ theo mẫu quy định và phải ghi rõ điều khoản: nếu Chủ đầu tư không thực hiện được cam kết như trên sẽ phải chịu phạt vi phạm và bồi thường cụ thể như thế nào? Nếu không, người mua sẽ phải chịu thiệt thòi rất lớn.
 
Liên quan đến việc này, đại diện công ty Cổ phần Xây dựng số 1 Lai Châu cho biết, căn cứ để cấp sổ đỏ cho những căn chung cư dưới 45 m2 là do Bộ Xây dựng đang tính toán sẽ sửa luật để cấp sổ đỏ cho những căn hộ này, Luật sư Triệu Trung Dũng cho biết: “Nếu trong trường hợp chính sách không thay đổi thì những người dân mua căn hộ này sẽ không có quyền sở hữu nhà, đất hợp pháp, trong khi họ phải bỏ ra số tiền rất lớn so với thu nhập của họ. 

Bởi vì họ đã ký hợp đồng vô hiệu theo quy định pháp luật mà không đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở”. Sau này, khách hàng cũng không có quyền chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp…nhà đất hợp pháp theo quy định của pháp luật.
 
Luật sư Triệu Trung Dũng cũng cho biết thêm, nếu chủ đầu tư không thực hiện được cam kết xin cấp “sổ đỏ” cho những khách hàng mua những căn hộ dưới 45m2 này thì họ có thể khởi kiện chủ đầu tư ra Tòa án về việc vi phạm hợp đồng. Đồng thời, khách hàng có thể đề nghị Tòa án tuyên hủy hợp đồng theo quy định tại điều 425 bộ luật Dân sự năm 2005 hoặc tuyên hợp đồng vô hiệu do bị lừa đối theo quy định tại điều 132, điều 410 và yêu cầu phạt vi phạm  và bồi thường thiệt hại theo hợp đồng quy định tại điều 422 BLDS (như đã nêu ở trên). 
 
“Tôi cũng lưu ý rằng, bộ Luật Dân sự không quy định mức phạt hoặc mức bồi thường hợp đồng là bao nhiêu, nếu hai bên không thỏa thuận mức phạt và bồi thường cụ thể”, Luật sư Dũng nói.
Theo:Giaoduc.net.vn.

Các tin khác