Người Việt xấu xí ở điểm nào?
Chạy theo đồng tiền, bất chấp hậu quả, miễn sao có nhà đất, xe đời mới, đồ dùng hàng hiệu, vui chơi tiệc tùng... thay cho các giá trị đạo đức “chân – thiện – mỹ”. Bạn đọc Cảnh Thái nhận xét về những thói hư tật xấu của người Việt Nam trong bài viết gửi đến báo SGTT.
Tác giả cho rằng người Việt có nhiều đức tính tốt đẹp, nhưng cũng vạch ra bảy thói hư tật xấu “cơ bản” của người Việt. Thế nhưng, thường mọi người có tâm lý “tốt khoe, xấu che”, không muốn “vạch áo cho người xem lưng”; hay tâm lý bao che, “đóng cửa bảo nhau”, không muốn mọi người thấy thói hư tật xấu của người thân hay bản thân mình!
Trước thực tế này, tác giả Cảnh Thái đề nghị “chúng ta cần một trao đổi thẳng thắn, không e ngại” dù sự thật mất lòng về những thói hư và tật xấu của người Việt Nam! Vì con người vốn dĩ đã hoàn thiện đâu? Có ai hoàn thiện, hoàn mỹ đâu?
Chúng tôi xin phép chia bài của bạn Cảnh Thái làm hai phần. Dưới đây SGTT đăng trước phần 1:
1. Khả năng làm việc theo nhóm kém, tinh thần đồng đội chưa cao, tính cách sống vì cộng đồng chưa trưởng thành:



Hiếu kỳ, bề bộn cũng là một trong những tính xấu. Ảnh: Vĩnh Kim

Người Việt thường hoàn thành tốt các công việc của cá nhân, nhưng khả năng gánh vác công việc cộng đồng, công việc chung kém, trách nhiệm cá nhân đối với cộng đồng kém.

Các học sinh Việt Nam thường chịu khó làm bài tập của mình rất siêng năng và làm tốt các bài tập được giao cho cá nhân. Thế nhưng bài tập chung của nhóm thường bị đùn đẩy trách nhiệm cho người khác làm, khả năng ngồi lại với nhau để thảo luận nhóm, đóng góp ý kiến cho một thành quả chung tích cực hơn thường bị xem nhẹ.

Tại các doanh nghiệp, các công nhân và nhân viên người Việt cũng “nổi tiếng” khó phối hợp đồng đội (teamwork) tốt, khó có hiệu quả hợp tác cao trong các công việc được cấp trên giao.

Tại mỗi khu phố, khu dân cư, nếp sống vệ sinh chung thường rất kém. Người ta chú ý quét dọn sạch sẽ nơi khuôn viên của gia đình mình, trong khi các diện tích chung, công cộng thường chịu việc xả rác, vứt bỏ các thứ linh tinh làm ô nhiễm môi trường chung.

Trên đường phố Việt Nam, chúng ta không khó bắt gặp các hình ảnh xả rác, chen lấn tranh giành nhau khi tham gia giao thông hoặc tại các cơ quan công quyền mà người dân phải xếp hàng lộn xộn, chờ chực trong một mớ hỗn độn, rất thiếu khoa học. Thậm chí ngay tại công sở tại TP.HCM, nếu bạn có việc phải xin giấy phép, đổi giấy phép hay giấy tờ liên quan, việc chen lấn chờ đợi vô trật tự (phần do cách làm việc không khoa học và diện tích khuôn viên chật chội trong khi khối lượng công việc nhiều với hàng trăm, hàng ngàn con người có nhu cầu đến liên hệ công tác tại đây hàng ngày). Điều này thể hiện một tư duy bon chen, chụp giật, không có kế hoạch, tổ chức và tầm nhìn dài hạn.

Tại các nhà ga, bến xe, hàng không, hàng quán, nhà hát, công viên công cộng, .v.v. chúng ta càng thấy rõ ý thức vì cộng đồng của người Việt thực sự chưa trưởng thành. Trách nhiệm trước mắt có thể thuộc về các cá nhân lãnh đạo tại các đơn vị này, sau đó là ý thức chấp hành của mỗi người dân trong cộng đồng và khả năng tổ chức phối hợp làm việc theo nhóm vì tinh thần cộng đồng, vì công việc chung còn nhiều điều chưa tốt.

2.Tư duy tiểu nông gắn chặt với quá khứ một dân tộc làm nông nghiệp lâu đời:

 Các thửa ruộng nhỏ lẻ, được các đời cha ông tiếp nối và chia tách ra làm nhiều miếng nhỏ dần cho các đời sau. Làm ăn manh mún, nhỏ lẻ, lạc hậu và bảo thủ theo kiểu tư duy xưa vẫn còn “con trâu đi trước cái cày theo sau”, thiếu liên doanh liên kết, thiếu sự hợp tác đôi bên cùng có lợi.

Bên cạnh đó, lòng đố kỵ, ích kỷ, ganh ghét, không muốn người khác hơn mình, dấu nghề, không mạnh dạn chia sẻ kinh nghiệm với mọi người, thậm chí anh em, người thân trong nhà cũng không san sẻ, giúp đỡ, “cho tiền cho bạc, không ai chỉ đàng làm ăn”!

Xong việc của mình là xem như xong, không quan tâm người khác hay bà con láng giềng làm ăn ra sao. Tư duy “hợp tác xã” một thời, nửa đêm không ai muốn thức dậy xả nước cho thửa ruộng chung, ảnh hưởng đến lối suy nghĩ và hành động “cha chung không ai khóc”, tị nạnh nhau các công việc của chung cộng đồng. Thậm chí, xuất hiện lối suy nghĩ “sống hôm nay, biết hôm nay”, bất chấp ngày mai ra sao!

Điều này dễ dẫn tới việc biển thủ, ăn cắp của công cả “tài sản vật chất và thời gian” trong các doanh nghiệp nhà nước bất chấp hậu quả là doanh nghiệp nhà nước có thể trở thành “con bò sữa của chung” mà mạnh ai nấy vắt sữa, khai thác đến mức kiệt quệ.

Tư duy “ăn xổi ở thì” dễ nổi lên lấn át, tư duy ngắn hạn, nghĩ đến quyền lợi cục bộ, mưu cầu tư lợi ngắn hạn hơn là phát triển dài hạn, phát triển bền vững cho cả cá nhân và cộng đồng.

3. Dễ dàng thỏa mãn với những thành công nhỏ:

Tư duy truyền đời kiểu “học thành tài” ăn sâu vào suy nghĩ thay thế cho tư duy tiến bộ hơn “học tập và làm việc phấn đấu, cống hiến suốt đời”. Các cá nhân học giỏi, xuất sắc không thiếu nhưng các thành quả khoa học, các phát minh thành tựu lớn trong hầu hết các lĩnh vực hầu như chưa sánh bằng các quốc gia khác, phần vì thiếu môi trường cho người tài, phần vì các cá nhân xuất sắc trong cộng đồng đã thỏa mãn với thành công nhỏ ban đầu so với mọi người trong “làng xóm nhỏ” xung quanh nên không chịu phấn đấu học tập liên tục và không có cơ hội phát triển lên tầm cao mới hay đạt tới trình độ và đẳng cấp thế giới.

Điều này xảy ra trong hầu hết các lĩnh vực như khoa học kỹ thuật, công nghệ, ứng dụng và sáng tạo, phát minh và sáng chế, văn hóa và thể thao... khi Việt Nam chưa có tên trên bản đồ các thành tựu lớn của thế giới vì số lượng các thành tích ở tầm cỡ thế giới còn quá ít so với các quốc gia khác.

Một số người du học nước ngoài cho hay, khi học phổ thông hay đại học, các sinh viên bạn thường không giỏi các môn học cơ bản; nhưng khi vào nghiên cứu ứng dụng, họ rất xuất sắc và sinh viên ta thường không theo kịp. Có lẽ tư duy học “thành tài” đã sớm làm chậm hay thiêu chột sức sống và khả năng học hỏi, phát triển liên tục của sinh viên ta (?).

Trong thương trường, các doanh nhân Việt Nam cũng có nhiều hạn chế trong việc phát triển doanh nghiệp; thường chạy theo các hợp đồng mua bán có tính thời vụ, dựa vào ưu thế “quen biết”, mối quan hệ thân hữu để giành lấy công việc trước mắt, ít có doanh nghiệp xây dựng kế hoạch dài hạn, có tầm nhìn xa, chú ý phát triển sản phẩm có chất lượng cao, có thương hiệu vươn lên tầm cỡ thế giới.

Các doanh nghiệp Việt Nam thường qui mô nhỏ và rất nhỏ, làm việc thiếu chuyên nghiệp, thiếu hợp tác phối hợp. Khi lớn lên một chút thì đã phân chia ra thành các doanh nghiệp nhỏ hơn do bất đồng quan điểm hợp tác hoặc muốn làm riêng thu lợi một mình, hoặc đã sớm thỏa mãn với thành công nhỏ đạt được. Các doanh nghiệp lớn chủ yếu chỉ là doanh nghiệp nhà nước khai thác dầu khí, khai khoáng mỏ, độc quyền về kinh doanh ngành nghề như điện lực, viễn thông, ngân hàng...

Theo SGTT

Các tin khác